Viếng Thăm
Giê-ru-sa-lem Thành Thánh
Với Mục sư Hồ Xuân Phước
Israel, Ðất Hứa của Thánh Kinh, nơi in hằn dấu tích thời gian của hàng ngàn năm lịch sử sôi động. Viếng Thăm Đất Thánh Israel là tìm lại bước chân của các tổ phụ, tiên tri, Chúa Cứu Thế Jesus và môn đồ Ngài. Dân Do-thái lưu vong trở về cố hương, tái lập quốc năm 1948. Israel bây giờ là tổng hợp đa diện của phố phường náo nhiệt, làng mạc trù phú với nông trại màu mỡ. Rừng xanh tô điểm những nét chấm phá tuyệt đẹp trên bản đồ quốc gia kỹ nghệ tân tiến.
Đất Thánh Do Thái hiện lên giữa vùng Trung Ðông sa mạc khô cằn như một ốc đảo xinh tươi, hấp dẫn, đầy sức sống. Phía tây là Ðịa Trung Hải, ba hướng còn lại, Israel tiếp giáp với các quốc gia Ả-rập Hồi giáo: Lebanon, Syria, Jordan và Egypt.
Diện tích Israel không quá 8000 dặm vuông, tương đương với tiểu bang New Jersey, hay 1/16 diện tích Việt Nam. Dân số ước chừng 9 triệu người, mà 83 phần trăm là người Do-thái. Hebrew và Arabic là hai ngôn ngữ chính của Do-thái.
Giê-ru-sa-lem, 48 dặm vuông, thành phố lớn nhất, nằm chính giữa Israel, với 983,097 dân, là Thành Thánh (Ê-sai 52:1) và kinh đô đời đời của Israel. Dân Do-thái chiếm 70 phần trăm. Ðường dốc 35 dặm từ bờ Ðịa Trung Hải đến Giê-ru-sa-lem đưa du khách qua đồi trọc hoang vu và những bờ đá cao ngất.
Jerusalem nổi tiếng không phải chỉ nhờ các đền đài cổ tráng lệ hay thành quách kiên cố. Jerusalem là Thành Thánh lịch sử, nơi tiên tri Giê-rê-mi, Ê-sai rao giảng sứ điệp công bằng xã hội và bình an, nơi Chúa Jesus rao giảng Phúc-âm cứu rỗi và chết trên thập tự giá tại đồi Golgotha, đối diện tường thành.
Giê-ru-sa-lem cổ kính với 5000 năm lịch sử được xây dựng trên núi Moriah. Phía đông là núi Olives và thung lũng Kidron. Phía tây nam là thung lũng Hinnon, nổi tiếng với hố rác Gehenna lâu đời, nơi Thánh Kinh đề cập đến như là lữa địa ngục vì người ta đốt rác không bao giờ ngừng.
Giê-ru-sa-lem qua nhiều thế kỷ là điểm tranh chấp và thánh địa hành hương của hàng triệu tín đồ Cơ-đốc giáo, Hồi-giáo và Do-thái giáo. Giê-ru-sa-lem là một thành phố đa dạng, đông đảo, với lịch sử dài phong phú. Cả người Do-thái lẫn người Palestine đều tuyên bố Jerusalem là thủ đô của mình. Từ Nam chí Bắc, họ sống riêng rẽ, tránh né nhau, nhưng tại Jerusalem, cả hai khối người khác biệt nầy sinh hoạt lẫn lộn với nhau.
Jerusalem là điểm hội tụ xung đột, nghịch lý của ba tôn giáo và còn là kinh đô của các loại nhạc thánh vang rền, hòa lẫn trong tiếng còi xe inh ỏi. Satellite dishes, nhà hội với tường đá cổ kính, tháp chuông nhà thờ nguy nga, và nóc đền vòm tròn sáng chói xuất hiện khắp nơi. Trong cuộc tranh chấp gay cấn hiện nay giữa người Palestine và dân Do-thái, Jerusalem là lô độc đắc tối hậu, quyết liệt. Cả hai đều dứt khoát tranh đấu cho đến cùng để trở thành chủ nhân ông duy nhất.
Người ta gọi Jerusalem là bảo tàng viện lộ thiên. Giữa một thành phố hiện đại, quá khứ ngàn năm bừng thức giấc trong thì hiện tại. Jerusalem là nơi cũ mới giao duyên, thánh tục gần gũi và đất trời hòa hợp. Bảy mươi lăm năm qua (1948-2024), Jerusalem là thủ đô tâm linh của Israel tái sinh. “Nhiều dân tộc sẽ đến và nói: ‘Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa, đến nhà Ðức Chúa Trời của Gia-cốp. Ngài sẽ dạy chúng ta đường lối Ngài, để chúng ta đi trong đường Chúa.’ Vì Kinh Luật sẽ ra từ Si-ôn, và lời của Chúa sẽ đến từ Giê-ru-sa-lem.” (Ê-sai 2:3-5).
Theo Thánh Kinh, Abraham (tổ phụ của dân Do-thái và dân Ả-rập) rời bỏ quê hương tại thành Ur (U-rơ), xứ Chaldean (Canh-đê) đến một xứ xa lạ mà Ngài sẽ chỉ cho (Sáng Thế Ký 12:2). Chúa hứa sẽ làm dòng dõi ông trở nên một dân tộc lớn. Abraham đã khá già nên đó quả là một lời hứa xa vời, độc đáo. Lời Thiên Chúa hứa trở thành sự thật.
Abraham có hai con trai. Ishmael, con trai đầu lòng, con Hagar, vợ bé. Isaac ra đời sau, lại được hưởng trọn gia tài vì là con Sarah, vợ lớn. Ishmael và Isaac trở thành tổ phụ hai khối dân thù nghịch cho đến ngày nay, khối Ả-rập và dân Do-thái.
Abraham xây bàn thờ trên núi Moriah để dâng của lễ thiêu tôn thờ Chúa. Lúc đó, nơi nầy được gọi là Shalem. Về sau, Vua David của dân Do-thái, một hậu tự của Abraham, chinh phục từ tay người Jebusites năm 1000 Trước Chúa. Sách thứ nhì của Sa-mu-ên, chương 5 ghi lại cuộc tiến chiếm Jerusalem. Quân Jebusites đóng chặt các cổng thành, đặt người đui và què thách thức David, không hề nghĩ rằng thành có thể thất thủ.
David dẫn quân chiếm thành, đánh bại dân Jebusites, đặt tên là thành David, cũng được gọi là núi Si-ôn – Mt. Zion, chỗ David xây bàn thờ cho Chúa (II Sa-mu-ên 5:7-12). Jerusalem là nơi David thống nhất cả mười hai chi phái Israel thành một vương quốc độc lập, hùng mạnh. David chọn Jerusalem làm thủ đô thờ phượng là một quyết định tâm linh, chiến lược và chính trị khôn ngoan theo ý Chúa. Jerusalem cũng là trung tâm quân sự và thủ đô hành chánh. David dời kinh đô từ thành Hebron về đây, xây thành Giê-ru-sa-lem trên núi Moriah. David chỉnh trang thành bền vững, chuẩn bị kế hoạch xây Ðền Thờ hết sức chu đáo. Mặc dầu xây Ðền Thờ là ước nguyện lớn lao nhất của David nhưng Chúa không cho phép, vì ông là một chiến sĩ đẫm máu và đã phạm tội trọng. Solomon kế nghiệp vua cha, hưởng vinh dự quý báu xây Ðền Thờ đầu tiên.
Theo sử gia Josephus, Ðền Thờ được xây dựng 590 năm sau khi Môi-se dẫn dân ra khỏi Ai-cập và 1020 năm sau khi Abraham rời U-rơ. Nền của Ðền Thờ là những tảng đá khối rất lớn và nặng, đặt sâu dưới mặt đất. Sau hàng ngàn năm dài chịu đựng sức tàn phá của quân thù, thời gian và mưa bão, Bức Tường Than Khóc – the Wailing Wall – vẫn còn đứng vững và là biểu tượng thiêng liêng nhất của người Do-thái và niềm tin của họ nơi Ðức Chúa Trời thành tín. Ðền thờ Solomon bị quân đội Nebuchadnezzar của Babylon phá hủy năm 586 Trước Chúa. Chương 25 của II Các Vua ghi lại hình ảnh đau thương kinh hoàng. Sau hai năm dài bị bao vây, dân và quân đói thiếu thê thảm. Vua Sê-đê-kia bỏ kinh thành chạy trốn, bị bắt và phải chứng kiến các con trai mình bị giết. Chính vua bị móc mắt, còng tay, dẫn độ về Babylon.
Ðền thờ, cung điện hoàng gia và tất cả nhà cửa trong thành Jerusalem đều bị đốt phá. Vàng bạc, trang cụ quý giá trong Ðền Thờ đều bị chở đi Babylon. Thành Thánh tan nát, Ðền Thờ sụp đổ, người bị bắt lưu đày, không nơi thờ phượng. Ðiều duy nhất họ còn là đức tin nơi Thiên Chúa và hy vọng một ngày trở về Jerusalem.