Lời Kinh Thánh: Hỡi linh hồn ta, hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va, chớ quên các ân huệ của Ngài. Ấy là Ngài tha thứ các tội ác ngươi, chữa lành mọi bệnh tận ngươi, cứu chuộc mạng sống ngươi khỏi chốn hư nát, Lấy sự nhơn từ và sự thương xót, mà làm mão triều đội cho ngươi. Ngài cho miệng ngươi thoả các vật ngon, tuổi đang thì của ngươi trở lại như của chim phụng hoàng. (Thi thiên 103:2,4).
Kính thưa quý vị, nhiều nước trên thế giới không có ngày lễ tạ ơn giống như tại Hoa kỳ là Thanksgiving Day. Ngày lễ Tạ ơn Chúa lần lần trở nên mùa buôn bán và tiệc ăn Gà tây.
Ngược dòng thời gian, vào ngày 6 tháng 9 năm 1620, 102 người vừa đàn ông, đàn bà, trẻ con cùng vật dụng và gia súc, họ bước lên chiếc tàu Mayflower rời Anh Quốc, vượt Đại Dương hướng về thế giới mới. Họ ra đi để tìm tự do: Tự Do Tôn Giáo. Từ đây họ mang một tên gọi mới, những người Hành Hương (Pilgrims).
Chín tuần rưỡi lênh đênh trên biển cả, họ chịu đựng biết bao nhiêu thử thách, sóng gió, bão táp, đói khát, bệnh tật… Hai người đã bỏ mạng trong cuộc hành trình. Ngày thứ hai 13-11-1620, lần đầu tiên họ bước chân xuống đất sau hơn hai tháng dài chen chúc trên chiếc tàu định mệnh Mayflower! Họ vui mừng, lẫn lo sợ.
Mùa Đông năm đó quá lạnh, thực phẩm lại thiếu, họ sống trong những ngày vô cùng tuyệt vọng! Tháng 12 có 6 người chết, qua tháng Giêng 8 người, số người chết tăng lên 17 trong tháng Hai và 13 người chết trong thánh Ba. Họ phải chôn những người xấu số này lặng lẽ trong đêm tối, vì sợ thổ dân biết được sự yếu đuối của họ mà tấn công chăng!
May mắn thay, không có một xung đột nào đáng kể giữa người da đỏ (Indians) và người hành hương như họ dự đoán. Trái lại dân da đỏ rất thân thiện và tận tình giúp đỡ người hành hương trong cuộc sống mới, dạy các trồng tỉa, săn bắn, nấu nướng các thứ hoa quả lạ. . .
Tháng tư họ cùng nhau trồng bắp dưới sự chỉ dẫn của một người da đỏ tên Squanto. Những luống bắp nầy sẽ quyết định sự sống còn của họ trong mùa đông sắp tới.
Họ vui mừng vì mùa Xuân và mùa Hè năm 1621 thật quá tuyệt đẹp! Bắp lên tươi tốt hứa hẹn một vụ mùa no nê như lòng họ mơ ước.
Rồi mùa đông lại về, nhưng bây giờ không còn là một đe dọa nữa. Mùa màng đã gặt hái xong, họ có dư thực phẩm để sống qua những ngày đông giá rét. Cũng không còn sợ lạnh vì đã làm được 11 cái nhà vững chắc đủ chỗ để quây quần sum họp. Họ quyết định tổ chức một Hội Ngày Mùa để tạ ơn Thượng Đế cho họ sống sót qua mùa đông đầu tiên. Đó là lễ Tạ Ơn đầu tiên trên đất Mỹ. Ngày tháng chính thức của “First Thanksgiving” nầy không được chép lại, chỉ biết đầu tháng mười một năm 1621.
Thực phẩm chính trong lễ Tạ Ơn nầy gồm: Bắp, bí đỏ, chim, vịt, ngỗng và gà tây. Họ cũng mời khách là thổ dân da đỏ, tù trưởng Massasoit dẫn 90 dũng sĩ đến dự “party” và cũng đem biếu Thống Đốc của nhóm người hành hương lúc bấy giờ là Bradford năm con nai trong ngày lễ Tạ Ơn đó. Họ ăn uống vui chơi suốt một tuần lễ! Lịch sử của lễ Tạ Ơn của người Mỹ cũng thăng trầm, trôi nổi theo vận nước của họ. Không có một ngày thống nhất định, các tiểu bang thuộc địa đầu tiên không thống nhất được ý kiến chung.
Họ giữ ngày lễ tùy tiện mà họ cho là thích hợp. Khi cuộc cách mạng giành độc lập từ tay người Anh thành công họ mới nghĩ đến một lễ Tạ Ơn chung cho 13 tiểu bang. Tổng Thống đầu tiên của nước Mỹ George Washington kêu gọi dân chúng giữ ngày thứ năm 26 tháng 11 năm 1789 làm ngày lễ Tạ Ơn đầu tiên cho toàn quốc. Nhưng sau đó lễ tạ ơn cũng không được mọi người công nhận trên một tháng ngày nhất định. Dầu vậy, càng ngày càng có nhiều người đưa ra ý kiến nên có một ngày nhất định, đưa lễ Tạ Ơn thành quốc lễ và đưa quyền quyết định cho chính phủ Liên-Bang.
Một trong những người có công trong việc thúc đẩy là bà Sarah Josepha Hale, một tác giả vào năm 1837 bà trở thành chủ bút của một tạp chí phụ nữ nổi tiếng có tên “Godey’s Lady’s Book”. Bà đã viết hàng trăm lá thư gởi đi các nghị sĩ Quốc Hội và những người có thế lực lúc bấy giờ để đưa Thanksgiving vào quốc lễ. Trong thời kỳ nội chiến (Civil War) năm 1861, bà viết một tâm thư kêu gọi hai phe buông súng một ngày để giữ lễ Tạ Ơn, nhưng không phe nào chịu nghe cả. Bà thất vọng!
Mãi đến năm 1863, Tổng thống Abraham Lincoln nhận thấy chiến tranh đã đến hồi kết thúc nên chỉ định ngày thứ năm cuối cùng của tháng 11 làm ngày lễ Tạ Ơn cho toàn quốc. Chẳng may ông bị ám sát, Andrew Johnson lên làm Tổng Thống, tiếp tục truyền thống cũ, nhưng đổi lại ngày thứ năm tuần lễ thứ 4 của tháng 11 làm lễ Tạ Ơn. Rồi trong khoảng thời gian từ năm 1939 đến 1941, Tổng Thống Franklin Roosevelt chỉ định ngày thứ năm của tuần lễ thứ ba trong tháng 11 làm lễ Tạ Ơn thay vì thứ năm trong của tuần lễ thứ 4. Nhưng lần nầy Roosevelt bị các nhà thương mại, các đảng viên đảng Cộng Hòa chống đối dữ dội, cho rằng Tổng Thống đã đi ngược lại truyền thống cũ. Hai năm sau Roosevelt rút lại quyết định và đặt ngày thứ năm tuần lễ thứ 4 của tháng 11 làm ngày lễ Tạ Ơn cho toàn quốc mãi cho đến ngày hôm nay.
Thánh Kinh I Tê-sa-lô-ni-ca 5:16-18 chép: Hãy vui mừng mãi mãi cầu nguyện không thôi, phàm làm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa; vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jesus Christ đối với anh em là như vậy. Người Úc Châu cũng là người di dân, nhưng không có ngày tạ ơn như Hoa kỳ. Chúng ta không có ngày đặc biệt để cầu nguyện xin Chúa ban phước cho đất nước. Nhưng chúng ta qua đây có ngày lễ tạ ơn Thượng Đế như đất nước Hoa kỳ thật là tốt đẹp. Vì vậy, lý do chúng ta phải tạ ơn Chúa là vậy.
(Sưu tầm)